Mai vàng (Ochna integerrima) còn gọi là hoàng mai, huỳnh mai hay lão mai, và được trồng làm cảnh phổ biến ở miền Nam vào dịp Tết Nguyên Đán.
Cây mai vàng thích nghi với vùng có khí hậu hot ẩm hơn là vùng có khí hậu rét lạnh và có mùa mưa bão kéo dài; cây ko quá kén đất trồng, có thể sử dụng các loại đất khác nhau như: đất giết mổ, đất cát pha, đất đỏ bazan, đất sét pha và đất phù sa đều trồng mai được,… miễn là đất đấy không quá nghèo chất dinh dưỡng. Khu đất trồng mai đòi hỏi phải có nắng, không bị che rợp và phải cao ráo ko bị ngập úng do mưa lũ hay triều cường.
Tại đô thị Hồ Chí Minh, cây mai được trồng phổ biến ở phố Bình Lợi, huyện Bình Chánh với diện tích hơn 250 ha. Đây là một trong những địa phương thực hiện chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, chuyển đổi những cây trồng không đạt hoàn hảo kinh tế (cây mía, dứa) sang trồng mai và hiện đã hình thành Làng mai Bình Lợi, dùng cho nhu cầu thưởng lãm mai của người dân trong và ngoài đô thị vào những dịp Tết Nguyên đán. Để giúp người trồng mai vàng bến tre 2022 có thể phòng trừ cũng như nhận diện và chữa trị một số sinh vật hại trên cây mai, bài viết sẽ đưa ra 1 số bệnh hại trên cây mai thường gặp như sau:
Bệnh cháy lá (Pestalotia funerea):
Bệnh nảy sinh vào đầu và giữa mùa mưa, lúc gặp nắng mưa xen kẽ. Bệnh hại cốt yếu trên lá, xuất hiện Đầu tiên ở chóp và mép lá tạo thành vệt màu nâu, lan dần vào phiến lá thành mảng to, màu nâu xám, phân biệt rõ với phần xanh của lá, mảng cháy có khi chiếm trên 1/2 diện tích lá. Trên vết bệnh có những chấm đen nhỏ là ổ bào tử. Lá bệnh nặng chuyển màu vàng và rụng. Bệnh nảy sinh chủ yếu trên lá già.
2. Bệnh đốm đồng bạc (địa y)
Đốm bệnh là mảng địa y, nghĩa là dạng cùng sinh giữa rêu và nấm. Bệnh thường tăng trưởng trên các thân cây lâu năm, già cỗi, lớp mô vỏ cây đã chết là môi trường cho rong rêu và các loại nấm hoại sinh vững mạnh. Khi đầu bệnh chỉ hội tụ ở phần thân sát gốc, về sau bệnh phát triển dần lên các nhánh cấp 1, nhánh cấp 2… Những cây có tán lá rậm rạp, ít ánh nắng, ẩm thấp rất phù hợp cho địa y lớn mạnh.
Việc đầu tiên vết bệnh chỉ là những đốm rất nhỏ hai – 3 mm, sau đấy phát triền dần lên có trục đường kính 3 – 5 cm. Vết bệnh phần đông có dạng hình tròn hoặc khá tròn như đồng bạc, màu xám trắng hay xám xanh. Nếu như nặng phổ thông vết bệnh sẽ kết liên lại thành mảng lớn có dạng hình bất định, loang lổ, cứ thế đa dạng lớp chồng chất lên nhau làm cho lớp vỏ của cây dày lên, có độ xốp giống như một lớp nhung bao vòng vo gốc cây mai.
chúng ta không nên trồng hoặc bố trí những chậu mai trong vườn quá dày, để vườn mai được thông thoáng, khô ráo, dưới tán, dưới gốc cây nhận được thêm ánh sáng mặt trời.
ngoài mặt mặt liếp để trồng mai (hoặc để đặt chậu mai) theo hình mai rùa, xẻ rãnh thoát nước để nước không đọng lại trên mặt vườn trong mùa mưa.
Định kỳ hàng năm phun 2 – 3 lần, phun ướt đều thân cây bằng các thuốc gốc đồng như: Bordeaux, CoC 85, Funguran,… Đối với những gốc mai đã bị bệnh: dùng thuốc Norshield 86.2 WG (3 g/lít nước). Quét ướt đều thân, cành và gốc liên tục 3 – 5 đợt, mỗi đợt cách nhau 7 – 10 ngày.
Bệnh đốm lá (Pestalotia palmarum)
Việc ban đầu bệnh xuất hiện đơn thuần là một chấm nhỏ li ti, sau đó vết bệnh lan nhanh cả lá, viền vết bệnh có mầu nâu đậm, chỗ tiếp giáp giữa mô bệnh và mô khoẻ có quầng mầu vàng nhạt. Bệnh nặng lá bị vàng rồi cháy lổ đổ, nhất là bìa lá, làm lá quăn queo. Bệnh thường xuất hiện trên những lá già rồi lan dần đến lá non, đọt non. Ở nhánh non bị bệnh làm lá bị rụng, đọt bị cháy khô, cây chậm vững mạnh.
Trồng với mật độ vừa phải để cây mai được thông thoáng. Vệ sinh vườn bằng cách cắt tỉa thu lượm lá bị bệnh tiêu hủy để giảm thiểu lây lan. Bón phân cân xứng, cải thiện bón thêm phân hữu cơ và kali giúp cây kháng bệnh. Dùng thuốc hoá học: Viben C, phun ướt đều cả hai mặt lá, cần lập lại hai – 3 lần, sau 5 – 7 ngày để trị bệnh. Phun từ 10 – 15 ngày/ lần để phòng trừ bệnh.
=== > Tham khảo thêm cách trồng và chăm sóc mai nhị ngọc toàn
Bệnh mốc cam (Coniothyrium fuckelli)
Bệnh thường gây hại nặng giai đoạn đầu và giữa mùa mưa. Bệnh hại cốt yếu trên cành và lá non; vết bệnh khi đầu là những đốm màu hồng (hơi giống màu đỏ đồng), sau ấy vết bệnh cứ phát triển rộng dần ra bao quành hết cả đoạn cành, đồng thời cũng lớn mạnh lên cả phía trên và phía dưới của chỗ bị bệnh. Khi vết bệnh đã bao loanh quanh kín hết cả một đoạn cành thì phần lớn những lá mai phía trên chỗ bị bệnh sẽ có màu vàng, xanh loang lổ, rồi bị rụng dần, khúc cành phía trên chỗ bị bệnh trở lên khô nứt, giòn dễ gẫy. Bệnh nặng làm cành khô và chết.
Định kỳ tỉa cành, cắt bỏ các cành bị gẫy hoặc bị bệnh. Sau lúc tỉa cành phun thuốc Daconil, Zineb, COC 85,…
Bệnh vàng lá cây mai (Bệnh sinh lý)
Thường xuất hiện vào những tháng sắp cuối năm; cội nguồn chính yếu do cây tụ hội dinh dưỡng để tạo búp hoa. Cây mai trồng trong chậu, đất xấu, ít được bón phân, thường bị bệnh vàng lá và bệnh cháy lá. Lá non có màu vàng nhạt hoặc trắng bạc, các gân lá còn xanh, phiến lá khá bị cong. Triệu chứng thường xuất hiện trong khoảng lá già và đi dần lên trên, cây sinh trưởng chậm lại.
Bón phần đông phân lúc có hiện tượng vàng lá, ngoài bón phân nên kết hợp phun phân bón lá có chất vi lượng, cây sẽ mau hết bệnh.
Bọ trĩ (Thrips sp.)
Bọ trĩ trưởng thành và ấu trùng đều chích hút dinh dưỡng ở lá non. Triệu chứng diễn đạt dưới mặt lá non là 2 vệt màu xám cùng lúc với gân chính. Đọt non bị hại thường sần sùi, cứng và giòn, hai mép lá và chóp lá cong lên. Khi bị hại nặng lá bị vàng và dễ bị rụng, cây vững mạnh kém.
Trưởng thành và ấu trùng thường sống tụ họp ở đọt non, gân lá non, ít đi lại. Khi những lá bị hại chuyển sang giai đoạn bánh tẻ và già, thức ăn ko còn phù hợp, chúng lại đi lại sang những lá non khác để chích hút và gây hại. Bọ trĩ thường gây hại nặng trong mùa khô, lúc mùa mưa đến bọ trĩ gây hại nhẹ hơn.
Bênh bọ trĩ trên cây mai
lúc tưới nước cho cây mai, dùng loại máy bơm có áp suất mạnh ghé thẳng vào những nơi cư trú của bọ trĩ để rửa trôi bớt chúng; mặt khác cũng sẽ làm giảm bớt được mật số của 1 vài đối tượng dịch hại khác đang gây hại trên cây mai như nhện đỏ, rệp sáp… khi mật số bọ trĩ cao có thể dùng 1 số loại thuốc như: Malvate 21EC, Trebon 10EC, Confidor 100SL, Admire 50EC, Vimite 10ND, Bifentox 30ND, Virigent 800WG…Về liều lượng và cách pha chế nên theo khuyến cáo có in sẵn trên nhãn thuốc. Lúc phun, chú ý phun tập hợp vào mặt dưới của lá non, đọt non. Không những thế, để hạn chế tác hại của bọ trĩ, nên trồng thưa để vườn mai giảo siêu bông sài gòn luôn được thông thoáng.
Nhện đỏ (Tetranychus sp.)
Nhện đỏ ngoài gây hại trên cây mai, chúng còn gây hại trên không ít loại cây trồng như cây ăn trái, cây rau màu và 1 vài loại cây hoa kiểng khác. Nhện thường tập kết thành từng đám ở mặt dưới các lá già, chích hút nhựa. Đôi khi nhện còn tập trung ở các mắt thân làm lá vàng và rụng. Nhện đỏ thường gây hại nặng trong các tháng mùa nắng.
Triệu chứng nhện đỏ gây hại cây mai
Do thân thể của nhện rất nhỏ Vì thế để phát hiện nhện cần phải sử dụng kính lúp kiểm tra hoặc ngắt những lá mai nghi ngờ có nhện đặt vào giữa hai tờ giấy trắng rồi lấy tay vuốt nhẹ phía ngoài tờ giấy, nếu thấy trên mặt giấy có những chấm nhỏ màu vàng xanh, hồng hay đỏ thì lá ấy đang có nhện gây hại, những chấm này càng phổ biến thì chứng tỏ mật độ của nhện càng cao. Nhện trưởng thành và nhện non đều ăn biểu phân bì và chích hút dịch của lá tính từ lúc lá bước vào công đoạn bánh tẻ trở đi, tạo ra những đốm lá trắng vàng có thể dễ trông thấy ở mặt trên của lá; còn ở mặt dưới của lá có những vết trắng lấm chấm giống bụi cám. Khi bị hại nặng bộ lá bị cằn lại, thô cứng và sẽ ảnh hưởng đến công đoạn sinh trưởng và tăng trưởng thông thường của cây mai.
=== > Xem thêm: Top 5 địa chỉ bán mai vàng sỉ giá tốt bán tết không nên bỏ lỡ
chúng ta không nên trồng hoặc đặt các chậu quá sát nhau để luôn tạo độ thông thoáng cho vườn mai. Thường xuyên kiểm tra bộ lá mai (nhất là những lá từ giai đoạn bánh tẻ trở đi) để phát hiện sớm và có biện pháp diệt trừ nhện kịp thời. Khi thiết yếu có thể sử dụng một trong các loại thuốc sau: Danitol 10EC; Comite 73EC; Pegasus 500SG; Ortus 5SC; Cascade 5EC; Nissuran 5EC; Sirbon 5EC; Kelthane 18,5EC…Chú ý phải sử dụng thuốc theo nguyên tắc 4 đúng và luân phiên các loại thuốc để hạn chế nhện đỏ kháng thuốc.